Đó là kết quả đánh giá năm nay của Ngân sách Carbon Toàn cầu (GCB), một sáng kiến theo dõi tất cả lượng khí thải CO2 trên toàn cầu mỗi năm, phát ra từ khí thải xe cộ, sản xuất điện, xi măng, và nhiều thứ khác. Báo cáo ước tính 38,1 tỉ tấn khí thải sẽ được thải ra vào cuối năm 2025, tăng 1,1% so với năm 2024, đạt mức cao kỷ lục.
Lượng khí thải này đến từ đâu? Tất cả loại nhiên liệu hóa thạch, từ than đá, khí đốt tự nhiên đến dầu mỏ, đều góp phần làm tăng lượng khí thải trong năm 2025. Bối cảnh đáng lo ngại mà nghiên cứu này mang lại là ngân sách carbon để hạn chế sự nóng lên toàn cầu đã “gần như cạn kiệt”.
Với lượng khí thải CO2 vẫn đang gia tăng, việc giữ mức nóng lên toàn cầu dưới 1,5°C không còn khả thi nữa, Giáo sư Pierre Friedlingstein thuộc Viện hệ thống toàn cầu Exeter, người đứng đầu nghiên cứu, giải thích. Với tốc độ phát thải hiện tại, lượng carbon còn lại để hạn chế sự nóng lên toàn cầu ở mức 1,5°C, tương đương 170 tỉ tấn CO2, sẽ cạn kiệt trước năm 2030.
Tổ chức khí tượng thế giới (WMO) của Liên Hợp Quốc cũng đưa ra kết luận tương tự vào năm ngoái, khi lưu ý trong Bản tin khí nhà kính tháng trước rằng lượng khí thải CO2 toàn cầu đã đạt mức cao kỷ lục trong năm 2024.
Mặc dù các công nghệ năng lượng tái tạo tiến bộ khả quan, cũng như các sáng kiến và đổi mới nhằm giảm phát thải trong sản xuất điện, amoniac, xi măng, giúp chúng ta có những bước tiến tích cực hướng tới đạt được các mục tiêu về khí hậu. Nhưng thực sự vẫn còn rất nhiều việc phải làm, và có vẻ vẫn còn một chặng đường khá khó khăn phía trước, dựa trên các dữ liệu này.
Lượng khí thải từ Hoa Kỳ (chiếm 13% tổng lượng khí thải toàn cầu) và Liên minh châu Âu (6%), dự kiến sẽ tăng cao hơn xu hướng gần đây, lần lượt là 1,9% và 0,4%. Điều này do sự gia tăng xuất khẩu khí tự nhiên hóa lỏng, sử dụng than đá gia tăng, nhu cầu điện năng cao hơn ở Hoa Kỳ, trong khi sản lượng thủy điện và điện gió trên khắp châu Âu lại giảm.
Tuy nhiên, GCB chỉ ra rằng không phải mọi thứ đều bi quan và u ám. Có một vài phát hiện tích cực từ khắp nơi trên thế giới.
Trung Quốc, quốc gia phát thải CO2 lớn nhất thế giới (chiếm 32% tổng lượng khí thải toàn cầu), đã giảm tốc độ phát thải đáng kể. Mặc dù số liệu ở nước này cho thấy mức tăng 0,4% lượng khí thải, nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với mức tăng hằng năm trong thập kỷ qua. Tương tự ở Ấn Độ, quốc gia chiếm 8% lượng khí thải toàn cầu, dự kiến mức tăng sẽ là 1,4%, thấp hơn so với xu hướng gần đây.
Thêm vào đó, 35 quốc gia đã giảm lượng khí thải CO2 trong thập kỷ qua, đồng thời vẫn phát triển kinh tế. Vì vậy, nhờ các chính sách quốc tế và nỗ lực quốc gia nhằm giảm sự phụ thuộc và sử dụng nhiên liệu hóa thạch, chúng ta đã thấy một số chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, chừng đó vẫn chưa đủ để đáp ứng nhu cầu cấp thiết hiện nay là phải đạt được các mục tiêu về nhiệt độ.
Vẫn còn rất nhiều việc phải làm nếu chúng ta muốn ổn định khí hậu trên toàn thế giới. Những nỗ lực làm chậm quá trình phá rừng đã có tác dụng, nhưng hầu hết các quốc gia sẽ phải thực hiện những điều chỉnh đáng kể đối với hoạt động sản xuất và tiêu thụ năng lượng của mình trong những năm tới.